Cài hoa lên áo là một tập tục vay mượn 50 năm trước của Nhật Bản, thêu dệt vào nghi lễ của ngày tưởng nhớ tổ tiên; nhưng đến nay, dù bông cẩm chướng đã biến thành hoa hồng, một số người cường điệu gọi đó là “truyền thống lâu đời của Phật giáo Việt Nam”, hay là “…nét văn hóa truyền thống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc” ,…
Merak Spielman | Trà Mi
Nguồn : dcvonline.net
Những cuộc đụng độ đầu tiên giữa hai tôn giáo / triết học, Phật giáo và Nho giáo, để tồn tại và phát triển trong thời hậu Hán Trung Hoa đánh dấu sự khởi đầu của quá trình tiến hóa đáng kể cho cả hai học thuyết.

Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi a tị địa ngục. Nguồn: By unknown artist(Life time: 19th century) – Original publication: not publishedImmediate source:http://academic.reed.edu/hellscrolls/scrolls/Aseries/A10/A10c.html, PD-US, https://en.wikipedia.org/w/index.php?curid=44727949
Nho giáo, mất uy tín sau sự sụp đổ của nhà Hán, vẫn là cơ sở đạo đức của dân chúng Trung Hoa. Phật giáo, phần lớn là một tôn giáo xa lạ và khó hiểu, đã phải hội thu một chút văn hóa Trung Quốc để tồn tại. Phật giáo đã mất một thời gian đáng kể trong tiến trình này; tu sĩ Phật giáo đã sống ở Trung Quốc nhiều thế kỷ mới thiết lập được nền móng tôn giáo của họ. Cuối cùng, trong thời “vàng son” của nhà Đường, Phật giáo là đức tin phổ biến nhất Trung Hoa. Đến giai đoạn này Phật giáo đã biến thân khá rõ ràng với nhiều sắc nét văn hoá địa phương. Điều này đã được thực hiện bằng sự nhấn mạnh (và thường xuyên xen kẽ) những tư tưởng đạo đức Nho giáo vào văn học kinh điển truyền thống Phật giáo và sự sửa đổi trong những bản dịch của kinh phật để thu hút độc giả Trung Hoa.
Phật giáo, dù tinh vi hơn so với bất kỳ hệ thống đức tin nào ở Trung Hoa vào thời khởi điểm, dường như đối với giới bình dân ở đây thì nó có vẻ như là một giáo phái bí ẩn của Lão (Đạo) giáo hơn là một tôn giáo nghiêm túc khác. Giới truyền giáo Phật giáo nhanh chóng nhận ra rằng sự miễn cưỡng của tín hữu bắt nguồn từ một thực tế là Phật giáo hoàn toàn thiếu sự nhấn mạnh về một giá trị cổ điển mà người Trung Hoa xem là chuyện sống còn. Ví dụ tốt nhất của thiếu sót trong kinh điển Phật giáo là sự vắng mặt của lòng hiếu thảo, nó không được đề cập đến như một trong các chính đề.
Lướt qua Luận ngữ người ta thấy ngay gần như hoàn toàn ngược lại – thật khó tìm được một chương nào không đề cập đến lòng hiếu thảo, nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp. Đối với người Trung Hoa thời đó, mối quan hệ quan trọng nhất trên thế giới là mối quan hệ với cha mẹ của họ. Phật giáo phát triển trong một vùng đất nơi mà giai cấp của một người quan trọng hơn cha mẹ của người ta, chỉ có một vài câu chuyện riêng lẻ với chủ đề (hiếu thảo) này. Những thí dụ lẻ loi, chẳng hạn như truyện (kinh) Bổn Sanh (Jātaka tales), mà nói về tiền kiếp của Phật Thích Ca, những câu chuyện về một người con yêu thương cha mẹ mù đã khiến ông mặc da hoẵng để vào rừng lấy sữa hươu tươi cho cha mẹ dùng; Bổn Sinh Kinh nhanh chóng được dịch và phát tán. Trong câu chuyện đặc biệt này, một lãnh chúa vô tình bắn trúng một cậu bé trong một cuộc đi săn; và để chuộc lỗi đã thề đưa cha mẹ của cậu bé về chăm sóc. Cha mẹ cậu bé quá đau khổ đã thốt nên lời kinh của Chân lý, kèm theo lời cầu nguyện khiến Đế Thích Thiên (Śakra, 帝釋天) xúc động, đã phải giáng trần và cứu cậu bé hồi sinh.(Ch’en, 20)
Một kinh Phật truyền thống thích hợp với văn hoá Trung Hoa là Phật thuyết Báo ân Phụng bồn Kinh (Yu-lan-p’en-ching, Ullambana Sutra, 佛說報恩奉盆經), kể chuyện người con tên Mục Kiền Liên khi trở thành A-la-hán (toàn nhân) sau khi ông chết, muốn báo hiếu tình yêu cha mẹ đã dành cho mình. Ông hoảng hốt khi thấy mẹ đã bị đày xuống a tị địa ngục vì lòng tham của bà kiếp trước (mà bà đã giấu không cho Mục Kiền Liên biết). Thay mặt mẹ mình, Mục Kiền Liên xin được tha tội với chính Đức Phật. Đức Phật dạy Mục Kiền Liên phải chuẩn bị một bữa tiệc lớn gồm hàng trăm món ngon, và vào ngày rằm tháng bẩy âm lịch để dâng lễ cho các tu sĩ của mười phương đại diện cho tổ tiên của mình (đặc biệt là người mẹ của mình). Mục Kiền Liên đã thực hiện lời Phật dạy, và mẹ ông đã được giải thoát khỏi a tị địa ngục. (Ch’en, 26)
Những câu chuyện như trên ít người ở Ấn Độ biết đến do chúng không phổ biến, nhưng lại được người dân Trung Hoa rất yêu chuộng. Người dân cũng như tu sĩ Phật giáo ở Trung Hoa nhận biết rõ rằng kinh điển Phật giáo truyền thống đã không cung cấp đủ những câu chuyện về lòng hiếu thảo để cạnh tranh ảnh hưởng với Khổng/Nho giáo. Nhiều kinh Phật giáo đã bắt đầu lưu hành, một cách đáng ngờ, dường như không có bản chính ở Ấn Độ trước khi có “bản dịch” sang Trung văn. Những pho kinh giả mạo đã giúp thu hẹp khoảng cách đáng kể giữa Phật giáo và văn hoá Trung Hoa. Một trong những kinh sách giả mạo nổi tiếng nhất là Fu-mu en-chung ching (Phụ mẫu Ân trọng Kinh). Pho Kinh này xuất hiện dưới vô số hình thức và tựa đề, và có vẻ gần giống như một chương trong Luận Ngữ.
“Đây là lời Phật: …còn như con gái, trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn bao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình, chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sữa ở trong mình, giảm mất tinh-anh, …
Tôi nghe Phật nói, thương xót vô cùng, như dao cắt ruột; nước mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy đức Thế-Tôn, công ơn cha mẹ, như Non như Bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Đức Phật, rủ lòng thương sót, dạy bảo cho hay.”
(Trích “Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh”)
Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân tiếp tục mô tả một Phật tử tốt phải là người cho cha mẹ biết rằng mình yêu cha mẹ. Mặc dù kinh này, và những bộ kinh khác, là giả mạo, chúng vẫn trở thành một phần kinh điển của Phật Giáo Trung Hoa. Đây là một trong những cách quan trọng, mà tư tưởng và thực hành của Nho giáo trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo tại đây.
Một cách khác mà Phật giáo đã tinh tế thay đổi trong nỗ lực để trở thành hấp dẫn hơn với người Trung Hoa là sự thích nghi của năm Tây Lạp (Silas hoặc Hồng y giới luật) của Phật giáo cho phù hợp với Ngũ thường của Nho giáo. Đó là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Năm Hồng y giới luật: không nói dối, ăn cắp, giết người, ngoại tình, và uống rượu say. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là lòng từ tâm của con người, sự công bình, phép tắc, kiến thức, và lòng tin. Mối tương quan giữa hai bộ giá trị này được mô tả trong một bộ kinh do người Trung Hoa sáng tác, Đề vị Ba lợi Kinh (Ti-wei Po-li-chin, 提謂波利經): Không sát sinh được ghép với lòng từ tâm của con người, không ăn cắp được ghép với sự công bình, không phạm tội ngoại tình được kết hợp với kiến thức, không uống rượu say được ghép với lễ nghi, và không nói dối được ghép với chữ tín.
Trí Nghĩ (Chih-I), một học giả Trung Hoa thậm chí gắn ngũ hành Trung Hoa (Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ) với năm Tây Lạp (Silas), tiếp tục thêu dệt Phật giáo vào nền văn hóa Nho giáo Trung Hoa, và ngược lại. (Ch’en, 59)
Một cách lớn hơn nữa mà Phật giáo đã được sửa đổi là ngay ở trong bản dịch của các bộ Kinh. Đây là một vấn đề đáng ngại hơn người ta nghĩ. Trước hết, tiếng Phạn và Trung văn hoàn toàn khác nhau, và nhiều từ ngữ Trung Hoa khác nhau dường như chỉ là một đối với người dịch thuật nước ngoài nhưng nhưng lại mang những ý nghĩa rất khác đối với người Trung Hoa. Ngoài ra, các bộ kinh tiếng Phạn, bản gốc, khá thực tế, ngắn gọn trình bày những gì đã xảy ra và tại sao và những điều gì có thể học được, bằng ngôn ngữ rất ít kiểu cách và bóng bẩy. Một bản dịch trực tiếp những kinh điển Ấn Độ như vậy chắc chắn sẽ không thể hấp dẫn với người dân Trung Hoa vốn yêu chuộng chi tiết và ẩn dụ. Ngoài ra, Trung văn còn thiếu từ có sẵn để mô tả khái niệm Phật giáo, vì vậy “dharma” (pháp) thường trở thành “Đạo” và “nirvana” (cõi niết bàn) trở thành Vô Vi (Wu-Wei, 無爲) vì không có cách nào khác để để diễn đạt những khái niệm tâm linh này. Ngoài ra, các bộ kinh đã được sửa đổi để nhấn mạnh việc kiềm chế vai trò của phụ nữ chứ không phải để họ ở một vị trí được tôn trọng hơn một chút trong xã hội Ấn Độ. (Wright, 35-37)
Do sức hấp dẫn của Phật giáo tăng lên trong quần chúng Trung Hoa, và cũng do tình trạng suy yếu của Nho giáo sau sự sụp đổ của nhà Hán, Phật giáo đã trở thành niềm tin thống trị trong suốt thời kỳ Lục Triều [Đông Ngô (222–280); Đông Tấn (317-420); Lưu Tống (420–479); Nam Tề (479–502); Lương (502–557); Trần (557–589)]. Khi Nhà Tuỳ thống nhất Trung Hoa năm 581 Phật giáo đã trở thành phổ biến, và từ khi Nhà Đường cai trị 617, trên thực tế, nó đã trở thành một quốc giáo. (Schirokaur, 114-115)
Gần như biến mất tại Ấn Độ, tiến hóa của của Phật giáo ở Trung Hoa là điều vô cùng quan trọng. Không nơi nào khác trên trái đất mà truyền thống Phật giáo lại được được một nền văn hóa văn minh hùng mạnh chuyên chở. Những thay đổi mà truyền thống Nho giáo áp đặt, dù vô tình đến đâu, về mặt tôn giáo đã sửa đổi hầu như tất cả các giáo phái của Phật giáo, và là điểm rất quan trọng để chúng ta hiểu đạo Phật như là một tôn giáo ngày nay.
Trà Mi

Hoa Cẩm chướng bên trong. Ngoài bìa: hoa hồng!
Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hoá của Trung Hoa là điểu bất khả tranh luận. Về mặt Phật giáo, phái Đại thừa ở Việt Nam cũng không khác gì ở Trung Hoa. Nguyên thuỷ, câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi a tị địa ngục của Ấn Độ, sang Trung Hoa, nó được nhấn mạnh vì lòng hiếu thảo với Mẹ là dịp lập đàn dâng lễ cho tu sĩ mười phương đại diện cho tổ tiên rồi trở thành Tết Trung Nguyên; sang đến Việt Nam, Tết Trung Nguyên biến thể thành lễ Vu Lan, ngày báo hiếu cha mẹ, và dần dà được coi như ngày của mẹ.
Mới hơn 50 năm trước Nhất Hạnh với đoản văn, “bông hồng cài áo”, viết năm 1962 tại Medford bên Mỹ, do Lá Bối xuất bản ở Saigon được Phạm Thế Mỹ quần chúng hoá bằng bài hát cùng tựa đề phát hành khoảng 1965-66 ở miền Nam khiến phật tử Việt Nam hôm nay có thói quen cài hoa hồng (rose) đỏ, trắng trong dịp lễ Vu Lan. Mấy ai biết được trong câu chuyện Nhất Hạnh kể lại tập quán cài hoa của người Nhật Bản, trong “bông hồng cài áo”, thì đó là hoa cẩm chướng (carnation) chứ chẳng phải hoa hồng (rose).
Cài hoa lên áo là một tập tục vay mượn 50 năm trước của Nhật Bản được thêu dệt vào nghi lễ của ngày tưởng nhớ tổ tiên; nhưng đến nay, dù bông cẩm chướng đã biến thành hoa hồng, một số người cường điệu gọi đó là “truyền thống lâu đời của Phật giáo Việt Nam”, hay là “…nét văn hóa truyền thống có ý nghĩa nhân văn sâu sắc” để tỏ lòng hiếu thảo với mẹ.
Trong cái gọi là “truyền thống lâu đời của Phật giáo Việt Nam” hẳn nhiên cũng có những bộ kinh tiếng Việt dịch lại từ Trung văn như “Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh” và những bộ kinh khác mà người ta không ai tìm được bản gốc bằng tiếng Phạn hay Pali.
© 2016 DCVOnline
———
Nguồn: Merak Spielman, “Changes in the Buddhist Tradition due to the Influences of Confucian Thought”, Eastern Religions, November 12, 2000
Tài liệu tham khảo:
-
Banerjee, Anukul C. Studies in Chinese Buddhism. Calcutta: Firma KLM (P) Ltd., 1977.
- Ch’u Chai and Winberg Chai in Confucianism, Woodbury, New York: Barron’s Educational Series, 1973.
- Kenneth K. S. Ch’en, The Chinese Transformation of Buddhism (Princeton: Princeton University Press, 1973).
- Schirokauer, Conrad. A Brief History of Chinese and Japonese Civilizations, 2nd ed. New York: Harcourt Brace Jovanovitch College Publishers, 1989.
-
Wright, Arthur F. Buddhism in Chinese History. Stanford: Stanford university Press, 1959.
Reblogged this on Những thằng già nhớ mẹ.
LikeLike